Lịch sử hoạt động La Galissonnière (lớp tàu tuần dương)

Khi hoàn tất, La Galissonnière, Jean de Vienne và Marseillaise hình thành nên Hải đội Tuần dương 3, với Marseillaise đảm nhiệm vai trò soái hạm của hải đội, và đặt căn cứ tại Bizerte. Georges Leygues, Montcalm và Gloire hợp thành Hải đội Tuần dương 4 có Georges Leygues làm soái hạm và được phối thuộc cho Hạm đội Đại Tây Dương đặt căn cứ tại Brest. Hải đội Tuần dương 4 tiến hành chuyến đi thử nghiệm sức chịu đựng đến Đông Dương từ tháng 12 năm 1937 đến tháng 4 năm 1938, và đã đại diện cho Pháp tại Hội chợ Quốc tế New York vào tháng 7 năm 1939.

Trong cuộc Chiến tranh Giả vờ, Hải đội Tuần dương 4 được đưa về Lực lượng Bắn phá, một hải đội tàu chiến nhanh dưới quyền Đô đốc Marcel-Bruno Gensoul, vốn còn bao gồm các thiết giáp hạm nhanh DunkerqueStrasbourg, các tàu tuần dương hạng nặngtàu khu trục lớn, đặt căn cứ tại Brest. Hải đội này tham gia đảm bảo an toàn cho các đoàn tàu vận tải vượt Đại Tây Dương, và đã truy tìm nhưng không thành công các tàu cướp tàu buôn Đức. Vì Ý tiếp tục giữ trung lập tại Địa Trung Hải, Marseillaise và Jean de Vienne tham gia vận chuyển đến Canada một phần dự trữ vàng của Ngân hàng Pháp Quốc vào tháng 12 năm 1939 và vận chuyển binh lính tại Địa Trung Hải vào tháng 3 năm 1940.

Đến tháng 4 năm 1940, do tàu tuần dương Émile Bertin bị hư hại bởi cuộc tấn công của Không quân Đức ngoài khơi Na Uy,[52] Montcalm thay thế cho nó, và đã tham gia cuộc triệt thoái trong chiến dịch Namsos. Đối diện với thái độ ngày càng không minh bạch của Ý, vào tháng 4 năm 1940, Lực lượng Bắn phá được gửi đến Địa Trung Hải, khi các hải đội tuần dương 3 và 4 được đặt căn cứ tại Algiers. Sau khi Ý tham chiến vào tháng 6, chúng đã xuất trận hai lần truy đuổi nhưng không thành công các tàu tuần dương Ý.

Vào ngày 3 tháng 7 năm 1940, Lực lượng H của Anh dưới quyền Đô đốc James Somerville được gửi đến Mers-el-Kebir. Do Bộ Hải quân Pháp gửi một bức điện vô tuyến bằng bạch văn ra lệnh cho các tàu tuần dương tại Algiers sáp nhập cùng hải đội thiết giáp hạm ngoài khơi Mers-el-Kebir, Bộ Hải quân Anh cảnh báo Somerville, hối thúc ông kết thúc việc thương lượng với Đô đốc Gensoul và nổ súng. Vì vậy, sáu chiếc tàu tuần dương buộc phải đổi hướng về phía Toulon, đến nơi vào ngày hôm sau.

Hai tháng sau, Chính phủ Vichy thỏa thuận với Ủy ban Đình chiến Đức gửi Hải đội Tuần dương 4 gồm Georges Leygues, Montcalm và Gloire cùng ba tàu khu trục lớn đến Libreville nhằm đối đầu với Lực lượng Pháp Tự do vốn đã chiếm quyền kiểm soát các lãnh thổ Châu Phi Xích đạo thuộc Pháp ngoại trừ Gabon. Vì chiếc tàu chở dầu Tarn, có tàu tuần dương Primauguet hộ tống, bị các tàu chiến Anh chặn lại tại Bight of Benin và bị buộc hướng đến Casablanca, việc tiếp dầu cho các con tàu không thể tiến hành tại Libreville, và hải đội tuần dương Pháp buộc phải quay trở lại Dakar. Bị chậm lại do gặp trục trặc cơ khí, Gloire bị các tàu tuần dương Anh ngăn chặn, và chỉ cho phép đi đến Casablanca, trong khi Georges Leygues và Montcalm đi đến Dakar hết tốc độ, và tham gia việc phòng thủ tại đây chống lại Chiến dịch Menace. Chúng ở lại đây cho đến năm 1943, có Gloire tham gia trở lại vào tháng 3 năm 1941. Từ ngày 15 đến ngày 25 tháng 9 năm 1942, Gloire được gửi đi trợ giúp cứu vớt những người còn sống sót trên chiếc tàu chở binh lính Anh Laconia bị tàu ngầm U-boat Đức U-156 phóng ngư lôi đánh chìm.[53]

Tại Toulon, hai trong số ba tàu tuần dương thuộc Hải đội Tuần dương 3 La Galissonnière và Marseillaise được đưa về một đơn vị gọi là Lực lượng Biển khơi; Marseillaise sau đó được thay thế bởi Jean de Vienne vào ngày 15 tháng 3 năm 1941. Lực lượng này hầu như không đi ra biển do bị thiếu hụt nhiên liệu, ngoài trừ một lần vào tháng 11 năm 1940 để hỗ trợ cho việc quay về Toulon của thiết giáp hạm Provence, vốn bị hư hại nặng bởi hỏa lực pháo của Anh vào tháng 7 năm 1940. Đến tháng 1 năm 1942, Jean de Vienne được gửi đi trợ giúp cứu vớt chiếc tàu biển chở hành khách Lamoriciere, vốn bị đắm trong một cơn giông tố mùa Đông ngoài khơi quần đảo Balearic, khiến hơn 300 người thiệt mạng.

Sau khi phe Đồng Minh đổ bộ thành công lên MarocAlgérie, vào tháng 11 năm 1942, Đức xâm chiếm vùng tự do của Pháp và tìm cách chiếm các tàu chiến Pháp tại Toulon. Tuy nhiên, ba chiếc còn lại thuộc lớp La Galissonnière là La Galissonnière, Marseillaise và Jean de Vienne, giống như hầu hết con tàu đặt căn cứ tại Toulon, đã bị đánh đắm vào ngày 27 tháng 11 năm 1942. Đến năm 1943, Hải quân Ý tìm cách cho nổi trở lại Jean de Vienne và La Galissonnière, đổi tên chúng thành FR11 và FR12 tương ứng. Tuy nhiên, dự định sáp nhập các con tàu trước đây của Pháp vào lực lượng của mình không thể thực hiện do tình trạng thiếu hụt nhiên liệu triền miên của Ý.[54] Vào năm 1944, sau khi Ý đầu hàng, phía Đức chuyển các con tàu cho chính phủ Vichy, nhưng chúng lại bị máy bay ném bom Đồng Minh đánh chìm: Jean de Vienne vào ngày 24 tháng 11 năm 1943 và La Galissonnière vào ngày 18 tháng 4 năm 1944. Cả hai đều bị tháo dỡ sau chiến tranh.

Giống như mọi tàu chiến Pháp ở lại Châu PhiAntilles thuộc Pháp, Georges Leygues, Montcalm và Gloire gia nhập lực lượng Đồng Minh. Từ tháng 2 năm 1943, xuất phát từ căn cứ tại Dakar, Georges Leygues tiến hành tuần tra tại khu vực trung Đại Tây Dương, và vào ngày 13 tháng 4 đã đánh chặn chiếc tàu vượt phong tỏa Đức Portland.[55] Cũng trong tháng 2 năm 1943, Montcalm được gửi đến Philadelphia để tái trang bị dưới sự trợ giúp của Hoa Kỳ; Gloire được gửi sang Brooklyn từ tháng 7 đến tháng 11 năm 1943 và Georges Leygues được gửi sang Philadelphia từ tháng 7 đến tháng 10 năm 1943. Các thiết bị phóng máy bay của chúng được tháo dỡ, và được bổ sung vũ khí phòng không mới bắn nhanh tầm ngắn. Được gửi đến Địa Trung Hải, Montcalm hỗ trợ cho chiến dịch giải phóng Corse vào tháng 9 năm 1943 trong khi Gloire tiến hành bắn phá bờ biển tại vịnh Gaeta vào đầu năm 1944.

Georges Leygues và Montcalm hỗ trợ cho cuộc đổ bộ Normandy của Đồng Minh vào ngày 6 tháng 6 năm 1944, rồi cùng với Gloire tham gia cuộc đổ bộ Provence vào ngày 15 tháng 8. Georges Leygues khải hoàn quay trở về Toulon vào ngày 13 tháng 9 năm 1944, treo lá cờ hiệu của Tổng tư lệnh Hải quân, Phó đô đốc André Lemonnier, vị chỉ huy của nó khi con tàu rời Toulon và chiến đấu tại Dakar vào năm 1940. Cho đến tháng 4 năm 1945, ba chiếc tàu tuần dương nằm trong thành phần của hải đội được gọi là Lực lượng Sườn, hoạt động ngoài khơi bờ biển Địa Trung Hải bên bờ phía Tây Riviera thuộc Ý.

Kể từ năm 1945, chúng thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau đến Đông Dương, và sau năm 1954 ngoài khơi bờ biển Algérie. Gloire là soái hạm của Hải đội Địa Trung Hải Pháp trong giai đoạn 1951-1952, Montcalm từ tháng 10 năm 1952 đến 6 tháng 6 năm 1954 còn Georges Leygues trong giai đoạn sau đó. Georges Leygues cũng phục vụ như là soái hạm của Lực lượng Can thiệp cho các chiến dịch ngoài khơi Ai Cập trong vụ Khủng hoảng kênh đào Suez, tiến hành bắn phá Rafah vào ngày 1 tháng 11 năm 1956 và hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Port-Saïd.

Gloire và Georges Leygues bị tháo dỡ vào các năm 19581959 tương ứng, còn Montcalm bị tháo dỡ vào năm 1970